CLB Bóng đá Arsenal được khai sinh khi một nhóm công nhân của Xưởng sản
xuất vũ khí đạn dược Woolwich đứng đầu là ông D. Danskin quyết định
thành lập một đội bóng đá vào cuối năm 1886. Trận đấu đầu tiên của CLB
dưới cái tên Dial Square là chiến thắng 6-0 trước Eastern Wanderers vào
ngày 11 tháng 12 năm 1886. Sau đó CLB được đổi tên là Royal Arsenal và
tiếp tục chơi những trận đấu giao hữu cũng như các cuộc tranh cúp địa
phương trong vài năm sau đó. Bộ áo thi đấu đầu tiên được vay mượn từ
CLB Nottingham Forest. Năm 1888 sân Manor Ground được coi là sân nhà
của CLB nhưng 2 năm sau họ lại được chuyển đến Invicta Ground (thuộc
vùng Plumstead).Năm 1891, CLB chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp và lại 1
lần nữa được đổi tên thành Woolwich Arsenal. Mùa bóng 1891-92 là năm
đầu tiên của CLB thi đấu giải bóng đá chuyên nghiệp. Năm sau (1893),
CLB chính thức gia nhập vào Liên đoàn bóng đá Anh và chơi ở giải hạng
Hai. Cũng năm này, sân nhà của CLB lại được dời về Manor Ground. Năm
1896 đánh dấu bằng trận đấu tệ hại nhất trong lịch sử của mình là trận
thua đậm Loughborough trên sân đối phương ngày 12 tháng 12 với tỉ số
0-8. Tuy nhiên chỉ 4 năm sau (1900), CLB đã trả lại sòng phẳng với
chính đối thủ đã làm nhục họ trong chiều dài lịch sử của mình bằng trận
thắng đậm 12-0 trên sân Manor ngày 12 tháng 3 năm 1900. Đây cũng là
trận thắng đậm nhất của CLB kể từ trước đến nay.
Năm 1904, sau khi về nhì ở giải vô địch hạng Hai, CLB được thăng hạng
Nhất. Năm 1906 đội vào tới bán kết cúp FA lần đầu tiên trong lịch sử.
Tuy nhiên đến năm 1910 thì CLB bị phá sản bởi tiền nợ quá nhiều. Một ý
tưởng được đưa ra là CLB nên sát nhập với Fulham nhưng điều đó đã không
xảy ra. Công ty mới được thành lập và CLB vẫn không bị giải tán. Mùa
bóng 1912-1913 CLB bị xuống hạng với số điểm thấp nhất (18 điểm trong
38 trận) trong suốt 20 mùa bóng CLB thi đấu. Năm này (1913) sân nhà
cũng được dời về Highbury và CLB chính thức lấy tên Arsenal. Trận đấu
đầu tiên trên sân Highbury là gặp Leicester Fosse (Arsenal thắng 2-1).
Giai đoạn này là giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử của mình nhưng
cũng từ đây đánh dấu 1 trang sử mới với 1 tên gọi (Arsenal) và 1 sân
vận động (Highbury) cho đến tận bây giờ.
Các cuộc tranh tài bóng đá bị gián đoạn do chiến tranh thế giới (lần
1). Năm 1919 sau khi WW1 chấm dứt thì giải hạng Nhất được mở rộng lên
22 đội. Arsenal được đặc cách thăng lên hạng Nhất dù rằng họ chỉ đứng
thứ năm trong giải hạng Hai mùa bóng trước. Kể từ đó Arsenal không bao
giờ rớt hạng và trở thành 1 trong những CLB lớn của Liên đoàn Bóng đá
Vương quốc Anh. Cũng năm này, ông Leslie Knighton được đề cử làm HLV
của Arsenal. Khởi đầu cho những thành công của các pháo thủ (biệt danh
của Arsenal là Gunners có từ năm 1925 do HLV Chapman đặt cho) chỉ đến
từ khi ông Herbert Chapman làm HLV của Arsenal năm 1925. Năm sau (1926)
Arsenal về nhì giải hạng Nhất của Liên đoàn và Rock Rutherford trở
thành cầu thủ lớn tuổi nhất chơi cho Arsenal (41 tuổi 236 ngày) trong
trận gặp Manchester City ngày 20 tháng 3 năm 1926. Năm 1927 Arsenal vào
chung kết cúp FA lần đầu tiên trong lịch sử nhưng lại thất bại trước
Cardiff City với tỉ số 0-1. Tuy nhiên 3 năm sau (1930) họ được hưởng
niềm vinh quang đầu tiên trong toàn bộ lịch sử khi chiến thắng
Huddersfield Town trong trận chung kết cúp FA với tỉ số 2-0. Chưa hết,
ngay năm sau (1931) Arsenal đã trở thành đội vô địch giải hạng Nhất của
Liên đoàn (tức giải VĐQG) với số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong 1
mùa bóng là 127 bàn. Đây là chức vô địch quốc gia đầu tiên của Arsenal.
Năm sau (1932) họ chỉ về nhì giải hạng Nhất nhưng lại vào đến chung kết
cúp FA lần thứ ba. Tuy nhiên Arsenal đành nhìn Newcastle United nâng
chiếc cúp FA năm đó khi để thua 1-2 ở trận chung kết. Dù chỉ đứng nhì ở
cả hai đấu trường VĐQG và cúp FA mùa bóng 1931-1932 nhưng không làm
chùn bước các pháo thủ, họ đã nhanh chóng giành lại chức vô địch QG
liền ngay mùa bóng 1932-1933 (VĐQG lần 2). Lại 1 mất mác nữa cho
Arsenal khi HLV H. Chapman mất tháng Giêng năm 1934. Ông Goerge Allison
được đề cử làm HLV thay thế và ông đã không phụ lòng các ủng hộ viên
khi đưa Arsenal lần thứ 3 đọat chức VĐQG (lần thứ 2 liên tiếp) mùa bóng
1933-1934. Mùa bóng kế tiếp (1934-1935) ông đã hoàn tất “hattrick” 3
lần đoạt chức VĐQG liên tiếp cho CLB. Mùa bóng này còn ghi nhận 2 kỷ
lục: 1 do Ted Drake thành lập khi trở thành cầu thủ ghi được nhiều bàn
thắng nhất trong 1 mùa bóng của Arsenal với 42 bàn. Và 1 kỷ lục nữa do
các fan Arsenal lập: 73,295 người có mặt ở sân Highbury trong trận gặp
Sunderland ngày 9 tháng 3 năm 1935. Mùa bóng 1935-1936 họ không thể bảo
vệ chức VĐQG nhưng lại lần thứ 2 trong lịch sử đọat cúp FA sau khi
thắng Sheffield United 1-0 trong trận chung kết. Thập niên 30 là thập
niên thành công nhất trong lịch sử của Arsenal với 5 chức VĐQG (trong
đó có 3 năm liên tiếp) vào các mùa bóng 1930-31,1932-33, 1933-34,
1934-35, 1937-38; 2 cúp FA các năm 1930, 1936; 5 lần đoạt Charity
Shield các năm 1930, 1931, 1933, 1934, 1938.
Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã đình chỉ mọi hoạt động thể thao kể cả
bóng đá từ năm 39 đến 46. George Allison về hưu năm 47, kế nghiệp ông
là Tom Whittaker cũng đã đưa Arsenal đi đến những vinh quang kế tiếp cụ
thể là chức VĐQG mùa bóng 1947-48 (lần thứ 6 trong lịch sử). Chiếc cúp
FA lần thứ 3 được mang về sân Highbury năm 50 sau khi chiến thắng
Liverpool 2-0 trong trận chung kết. Mùa bóng 1952-53 đánh dấu 1 kỷ niệm
đẹp với Gerry Ward khi anh trở thành cầu thủ trẻ nhất khi mới có 16
tuổi 321 ngày trong trận gặp Huddersfield Town ngày 22 tháng 9 năm
1953. Mùa bóng này là lần thứ 7 Arsenal đoạt chức VĐQG. Tuy nhiên 3 năm
sau, lần thứ 2 một HLV bị mất lúc tại chức trong lịch sử Arsenal: ông
Tom Whittaker chết năm 1956, kế vị ông là Jack Crayston. Từ năm 56 đến
68 Arsenal thi đấu không thành công và đã nhiều lần thay đổi HLV: Jack
Crayston (56-58), Goerge Swindin (58-62), Billy Wright (62- 66), Bertie
Mee (66-68). Trong thời gian này Arsenal không có danh hiệu nào quan
trọng ngoại trừ đoạt cúp Liên đoàn các quận hạt miền Đông-Nam (của đội
trẻ năm 56 với HLV Jack Crayston), đoạt cúp FA đội trẻ (năm 66 với HLV
Billy Wright), 2 lần vào chung kết cúp Liên đoàn thua Leed United 0-1
năm 68, thua Swindon Town 1-3 năm 69.
Mở đầu cho thập kỷ 70 là chiếc cúp European Fairs (về sau được gọi là
cúp C3 hay UEFA Cúp hiện nay) sau khi thắng 1 CLB Bỉ là Anderlecht 4-3
sau 2 lượt đấu. Tuy nhiên niềm hãnh diện của các fan Arsenal không phải
là chiếc cúp châu Âu đầu tiên đó mà là lần đầu tiên trong lịch sử của
CLB, họ đoạt cú double trong năm khi mùa bóng 1970-71 họ đã thắng
Liverpool 2-1 trong trận chung kết cúp FA (lần 4) và đoạt luôn giải
VĐQG (lần 8). Năm này cũng là năm bội thu của CLB khi họ cũng chiến
thắng cúp FA dành cho đội tuyển trẻ và 1 lần nữa nâng chiếc cúp Liên
đoàn các quận hạt miền Đông-Nam. Mùa bóng kế tiếp (71-72) họ không thể
bảo vệ được cú double năm trước dù rằng đã vào tới chung kết cúp FA
(lần thứ 8 vào chung kết cúp FA) khi để thua Leed United 0-1. Ông Bob
Wall, trợ lý HLV thời Jack Crayston được đề cử làm HLV và ông Ken Friar
làm trợ lý. Tuy nhiên ông Bob đã không thể mang lại nhiều thành công
cho CLB khi trong 4 năm cầm quyền (từ 72-76) ông chỉ có thể đưa Arsenal
về nhì giải VĐQG năm 1973 và lọt vào bán kết cúp FA trong cùng năm đó.
Bertie Mee lần thứ 2 lại lên nắm quyền thay Bob năm 76 nhưng vẫn không
thể vực dậy 1 Arsenal cần phải thay máu. Ông Mee bị Terry Neill thay
thế cũngngay trong năm đó. Ông Terry đã mang lại chút tự hào cho các
fan hâm mộ Arsenal khi đưa Arsenal 3 năm liên tiếp vào chung kết cúp FA
với 1 lần thắng trận: 1978 thua Ipswich Town 0-1, 1979 thắng MU 3-2 và
năm 1980 thua West Ham United 0-1. Cũng trong năm 80, Arsenal lọt vào
chung kết cúp các đội đoạt cúp quốc gia (tức cúp C2) gặp Valencia (TBN)
nhưng lại thua bằng những quả đá phạt luân lưu.
Từ năm 1983 đến 1986, Arsenal 2 lần thay HLV: Don Howe thay Terry Neill
năm 1983, George Graham thay Don năm 1986. Khi G. Graham lên nắm quyền
ở Arsenal thì CLB mới trở lại thời kỳ huy hoàng của họ. Thay thế Don
năm 86 thì ngay năm sau ông đã đưa Arsenal đoạt cúp Littlewoods (tên
gọi của cúp Liên đoàn lúc đó) sau khi thắng Liverpool 2-1 trong trận
chung kết. Năm sau 1988 lại 1 lần nữa Arsenal có mặt ở trận chung kết
cúp Littlewoods nhưng lần này thì thất bại 2-3 trước Luton Town. Tuy
nhiên niềm vui của họ chỉ là không trọn vẹn mà thôi bởi vì mùa bóng kế
tiếp, 1988-89, Arsenal đã vô địch QG (lần thứ 9) và đoạt cúp FA dành
cho đội tuyển trẻ (lần thứ 3). Cùng năm đó, G. Graham được bầu là HLV
xuất sắc nhất trong năm. Mùa bóng 1990-91, Arsenal vô địch giải QG (lần
10) chỉ với 1 trận thua và chỉ để lọt lưới 18 bàn suốt mùa giải. Một
lần nữa G. Graham được bầu là HLV xuất sắc nhất. Năm này họ còn đoạt
được cúp Liên đoàn các quận hạt miền Đông-Nam (của đội trẻ) và vào bán
kết cúp FA.
Năm 1992, Arsenal là 1 trong những thành viên sáng lập ra giải Ngoại
hạng Anh (EPL). Mùa bóng 1992-93, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên
chiến thắng cả cúp FA và cúp Liên đoàn (tức Littlewoods Cup trước đây
hay còn gọi là Coca-Cola Cup bởi vì do hãng này tài trợ) trong 1 mùa
bóng. Mà điều đặc biệt là đối thủ trong 2 trận chung kết (FA và League)
đều là Sheffield Wednesday và đều thua với tỷ số 2-1. Mùa bóng năm đó
còn chứng kiến 1 kỷ lục mới trong lịch sử của Arsenal: David O’Leary là
cầu thủ khoác áo Arsenal nhiều nhất 722 trận. Mùa bóng 1993-94, Arsenal
lại 1 lần nữa có thêm được chiếc cúp châu Âu (lần trước là European
Fairs Cup năm 1970) khi đánh bại Parma (Ý) trong trận chung kết cúp các
đội đoạt cúp quốc gia tại Copenhagen (Đan Mạch) với tỉ số 1-0. Năm này
họ cũng đoạt cúp FA dành cho đội tuyển trẻ (lần thứ 4). Qua năm sau,
1995, Arsenal không thể làm khác hơn được những đội bóng đã từng đoạt
chiếc cúp C2 này khi không thể bảo vệ được cúp mặc dù đã vào đến chung
kết tại thành phố Paris. Asenal đã thua Real Zaragosa 1-2 sau khi đá 2
hiệp phụ. Với mùa giải trắng tay, G. Graham đã bị thay thế bởi Bruce
Rioch và mùa chuyển nhượng năm đó đã đem Dannis Bergkamp từ
Internazional Milano với giá chuyển nhượng kỷ lục trong lịch sử chuyển
nhượng của CLB lúc đó là 7.5 triệu bảng Anh. Mùa bóng 1995-1996 lần
lượt Bruce Rioch rồi Stewart Houston bị sa thải vì thành tích yếu kém
của CLB thì Arsene Wenger xuất hiện.
Dù đến Arsenal từ năm 96 nhưng đến mùa bóng 97-98 ông Wenger (là HLV
đầu tiên của CLB Arsenal không phải người trong các nước Liên hiệp Anh)
mới thực sự cầm quân trọn vẹn suốt mùa giải. Ông Wenger không cần phải
mất nhiều thời gian như những người tiền nhiệm khi ông mang về cho
Highbury cú double thứ 2 trong lịch sử CLB với việc giúp Arsenal đoạt
chức vô địch quốc gia (lần thứ 11) từ tay MU- đội đã thống trị EPL từ
khi giải này khai sinh với 4 lần chiến thắng trong 6 mùa giải- và thắng
Newcastle 2-0 trong trận chung kết cúp FA (lần thứ 7). Chưa kể đầu mùa
bóng họ cũng đã có được Charity Shield (lần thứ 9). Mùa bóng 1998-99
Arsenal thất bại trong cả 2 mặt trận giải VĐQG (về nhì) và cúp FA nhưng
lại chiến thắng Charity Shield (lần thứ 10). Mùa bóng 2000-01 họ vẫn
chưa thể lật đổ được MU-kẻ đã thống trị gần như toàn bộ EPL- khi 3 năm
liên tiếp 1999,2000,2001 họ đều về nhì ở giải EPL. Ông Wenger cũng đã
làm hơn người HLV tiền nhiệm là ông Terry Neill khi cũng đã 3 lần liên
tiếp đưa Arsenal vào chung kết FA với 2 lần thành công: năm 2000-01
thua Liverpool 1-2, 2001-02 thắng Chelsea 2-0, và 2002-03 thắng
Southampton 1-0. Không những thế ông Wenger còn là HLV duy nhất (tính
đến thời điểm hiện nay) giúp Arsenal 2 lần đoạt cú double vào các năm
1998 và 2002. Mùa bóng vừa qua 2002-03, Arsenal cũng đã dẫn đầu gần như
toàn bộ (31/38 vòng đấu) giải EPL nhưng đã để cho MU qua mặt trong
những vòng cuối. Dù về nhì ở giải EPL nhưng họ suýt trở thành đội bóng
đầu tiên trong lich sử bóngđá Anh bảo vệ thành công cả chức vô địch EPL
và cúp FA. Thắng Southampton 1-0 ở trận chung kết để đoạt cúp FA (lần
thứ 8) không làm cho họ phải trắng tay ở mùa giải này. Thành công của
Arsenal nói chung và của Wenger nói riêng gắn liền với sự du nhập hàng
loạt ngôi sao đến từ Pháp, những người đã thành danh từ World Cup 98 và
Euro Cup 2000: Patrick Vieira (1996-nay), Emmanuel Petit (1997-2000),
Nicolas Anelka (1996-99), Thierry Henry (1999-nay), Sylvain Wiltord
(2000-nay), Robert Pires (2000-nay)…
Đây là toàn bộ thành tích của họ từ lúc khai sinh ra đến hết mùa bóng 2002-03:
Vô Địch Quốc Gia:
1930-31, 1932-33, 1933-34, 1934-35, 1937-38, 1947-48, 1952-53, 1970-71, 1988-89, 1990-91, 1997-98, 2001-02
Hạng Nhì Giải VĐ Quốc Gia:
1925-26, 1931-32, 1972-73, 1998-99, 1999-2000, 2000-01, 2002-03
Charity/Community Shield:
1930, 1931, 1933, 1934, 1938, 1948, 1953, 1991, 1998, 1999, 2002
Cúp FA:
1930, 1936, 1950, 1971, 1979, 1993, 1998, 2002, 2003
Á quân cúp FA:
1927, 1932, 1952, 1972, 1978, 1980, 2001
Cúp Liên Đoàn (League Cup):
1987, 1993
Á quân cúp Liên Đoàn:
1968, 1969, 1988
Cúp Châu Âu:
European Fairs Cup (tức cúp C3): 1970
Á quân cúp C3: 2000
Cúp C2 : 1994
Á quân cúp C2: 1980, 1995
NHỮNG ĐIỂU THÚ VỊ VỀ ARSENAL:
- Arsenal là đội đầu tiên của lịch sử bóng đá Anh thắng 2 chiếc cúp nội
địa trong 1 mùa bóng khi năm 1993 họ đoạt FA Cup và League Cup sau khi
thắng Sheffiled Wednesday trong cả 2 trận chung kết cùng với tỉ số 2-1.
Kể từ năm 1993 đến nay thì chỉ có 1 lần duy nhất trong cuộc tranh cúp
FA và Liên đoàn có trường hợp như vậy: chỉ có 2 đội trong 2 trận chung
kết.
- Arsenal là đội duy nhất trong lịch sử bóng đá Anh đoạt chức vô địch
quốc gia nhờ vào tỉ lệ bàn thắng bại. Mùa bóng 1988-89, trong trận cuối
cùng của mùa bóng, họ cần phải thắng với tối thiểu là 2 bàn cách biệt
trước Liverpool để qua mặt chính Liverpool để đoạt chức vô địch. Kết
qủa họ thắng 2-0.
- Arsenal là đội bóng có thời gian chơi trong giải hạng cao nhất (trước
là hạng Nhất, sau này là EPL) lâu nhất: 85 mùa bóng (kể từ lần rớt hạng
năm 1913 và trở lại chơi hạng nhất 1919).
- Với 3 lần đoạt cú double các mùa bóng 1970-71, 1997-98, 2001-02,
Arsenal cùng với MU là 2 đội bóng duy nhất tính tới thời điểm hiện nay
của bóng đá Anh đã 3 lần đoạt được cú double.
- Tony Adams là cầu thủ duy nhất trong lịch sử Arsenal đã 3 lần vô địch quốc gia trong 3 thập kỷ: 1989, 1998 và 2002.
- Arsenal là đội (có lẽ là duy nhất nếu như ai đó không thể thống kê
được điều này) giành được các danh hiệu trong mỗi ngày của tuần: từ thứ
Hai cho đến Chủ nhật. Bạn không tin? Ta hãy thử xem:
Thứ Hai: VĐQG mùa bóng 1971.
Thứ Ba: đoạt cúp C3 năm 1970
Thứ Tư: đoạt cúp C2 năm 1994 , VĐQG năm 2002
Thứ Năm: đoạt cúp FA năm 1993
Thứ Sáu: VĐQG năm 1989.
Thứ Bảy: đoạt cúp FA 1998 và 2002
Chủ Nhật: VĐQG 1998, Cúp Liên đoàn 1987 và 1993
Trên đây chỉ liệt kê 1 số danh hiệu trong 1 ngày mà thôi. Arsenal vẫn
còn nhiều danh hiệu nhưng đa số là vào các ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật.
- Dù đã 12 lần VĐQG nhưng chưa có HLV nào của Arsenal 2 lần liên tiếp
đoạt chức VĐQG. Trong lịch sử, Arsenal chỉ có 1 lần VĐQG liên tiếp (3
lần liền) nhưng lại do 3 HLV khác nhau nắm quyền. Mùa bóng 1932-33 do
ông Herbert Chapman. Mùa bóng 1933-34, ông Chapman mất tháng Giêng
1934, ông Allison không lên nắm quyền ngay mà mãi đến đầu mùa bóng sau
1934-35, ông mới chính thức là HLV của CLB. Còn khi ông Chapman mất thì
nữa mùa bóng còn lại 1933-34 thì ông Joe Shaw nắm quyền và ông đã đưa
Arsenal VĐQG mùa bóng đó. Như vậy, Arsenal VĐQG mùa 1932-33 với
Chapman, 1933-34 với Joe và 1934-35 với Allison.
- Tổng cộng kể từ lúc thành lập đến nay,
Arsenal đã chơi 4701 trận trên tất cả các giải đấu. Họ thắng 2148 trận,
hòa 1171 trận và thua 1382 trận; ghi được 7829 bàn thắng (tỉ lệ 1.67
bàn/trận), để lọt luới 5861 bàn thua (1.25 bàn/trận).
- Trận thắng đậm nhất: Arsenal 12 - 0 Ashford United (14/10/1893) và Arsenal 12 - 0 Loughborough T (12/03/1900).
- Trận thua đậm nhất: Loughborough T 8 - 0 Arsenal (12/12/1896).
- Số trận thắng liên tục: 14 trận (từ ngày 12/09/1987 - 17/11/1987).
- Số trận bất bại liên tục: 24 trận (từ ngày 23/03/2002 -
06/10/2002),Hiện nay Arsenal của chúng ta đã 30 trận bất bất bậi tại
giải NHA,khả năng phá kỉ lục này còn rất nhiều....
- Số trận không thắng liên tục: 19 trận (từ ngày 28/09/1912 - 11/01/1913)
- Số trận thua liên tục: 8 trận (từ ngày 12/02/1977 - 12/03/1977)
- Những cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong lịch sử CLB Arsenal:
1. Ian Wright 185 bàn
2. C Bastin 182 bàn
3. J Radford 150 bàn
4. J Brain 142 bàn
5. E Drake 141 bàn
6. D Lishman 139 bàn
7. J Hulme 128 bàn
8. Thierry Henry 126 bàn (hiện nay Henry đã ghi 151 bàn,tính đến hết ngày 12-4-2004)
9. D Jack 126 bàn
10. R Lewis 118 bàn
- Những cầu thủ khoác áo Arsenal nhiều nhất:
1. D Oleary 772 trận
2. Tony Adams 668 trận
3. Lee Dixon 618 trận
4. G. Armstrong 607 trận
5. Nigel Winterburn 582 trận
6. David Seaman 563 trận
7. P. Rice 521 trận
8. P. Storey 494 trận
9. J. Radford 475 trận
10. R. John 470 trận
- Spoiler:
NHỮNG KỶ LỤC DO ARSENAL THIẾT LẬP VÀ NẮM GIỮ
Phần 1 Những kỷ lục trong bóng đá Anh:
NHỮNG kỶ LỤC ĐANG TRÊN ĐÀ THIẾT LẬP:
1. Số trận bất bại nhiều nhất kể từ đầu mùa bóng tại giải Ngoại hạng:
21 trận. Sau trận thắng Middleborough ngày 10 tháng 1 vừa qua, Arsenal
đã nâng kỷ lục bất bại của họ trong khuôn khổ EPL lên con số 21.
Kỷ lục cũ cũng do Arsenal đồng nắm giữ cùng với Liverpool (mùa bóng
2002-2003), Aston Villa (1998-99) và Nottingham Forest (1995-96) với 12
trận bất bại.
Đây là năm thứ 3 khởi đầu thành công nhất trong lịch sử của Arsenal.
Lần đầu là vào mùa bóng 1947-48 với 17 trận. Lần thứ 2 là mùa bóng
1990-91 với 23 trận. Trong cả 2 lần đó Arsenal đều đoạt chức vô địch
quốc gia.
2. Số mùa bóng liên tục trong giải VĐQG hạng cạo nhất (hạng I trước đây
và EPL ngày nay) nhiều nhất: 85 mùa bóng. Được đặc cách thăng hạng năm
1919 sau khi rớt xuống hạng II năm 1913, Arsenal đã không bị rớt hạng
cho đến bây giờ để thiết lập nên 1 kỷ lục khó lòng bị đánh đổ.
Đội có khả năng tiếp cận kỷ lục của Arsenal là Everton nhưng để đạt
được điều đó thì Everton phải mất 35 năm nữa (với điều kiện là Arsenal
rớt hạng năm nay) bởi vì hiện tại Everton chỉ có mặt liên tục ở giải
VĐQG (hạng I & EPL) 50 mùa bóng mà thôi.
NHỮNG KỶ LỤC ARSENAL ĐÃ VÀ ĐANG NẮM GIỮ:
1. Số trận ghi bàn liên tục nhiều nhất trong giải VĐQG (hạng I &
EPL): 55 trận. Kỷ lục được thiết lập từ trận thua Southampton 2-3 ngày
19/5/01 cho đến trận thắng Aston Villa 3-1 ngày 30/11/02. Cột mốc cho
kỷ lục này là trận hoà Newcastle 0-0 ngày 15/5/01 (trước kỷ lục) và
thua MU 0-1 ngày 07/12/02 (chấm dứt kỷ lục).
Kỷ lục cũ do Mancheter City nắm giữ với 44 trận ghi bàn liên tục tại
giải hạng I trước đây vào năm 1936 đến 1937. Việc liên tục ghi bàn
trong thời gian này đã giúp Man City đoạt chức vô địch mùa bóng
1936-1937 từ tay Arsenal (Arsenal về nhì mùa bóng đó). Tuy nhiên mùa
bóng năm sau 1937-38, Man City lại bị rớt hạng. Một đội rớt hạng là
chuyện bình thường. Đội rớt hạng là đương kiêm vô địch cũng không phải
là hiếm nhưng Man City rớt hạng còn với tư cách là đội ghi nhiều bàn
thắng nhất mùa bóng đó với 80 bàn (để lọt lưới 77 bàn) trong khi
Arsenal là đội vô địch năm đó chỉ về nhì với 77 bàn thắng. Điều này
cũng có nghĩa là Man City rớt hạng với tỷ lệ bàn thắng bại là dương 3.
Có lẽ đây là trường hợp có 1 không 2 trong lịch sử bóng đá Anh và có
thể của cả thế giới.
Cũng với 55 trận ghi bàn liên tục này , Arsenal còn là đội giữ kỷ lục
cho tất cả các giải đấu của bóng đá Anh (gồm tất cả các hạng EPL, I,
II, III…). Đội giữ kỷ lục cũ là Chesterfield (hạng III) từ năm 1929 đến
1931 với 46 trận.
2. Số trận ghi bàn liên tục trên sân đối phương nhiều nhất: 27 trận
được thiết lập trong 2 mùa bóng 2001-02 đến 2002-03. Kỷ lục cũ do MU
thiết lập với 24 trận trong 3 mùa bóng 2000-01, 2001-02, đến 2002-03.
Đây có lẽ cũng là kỷ lục của bóng đá Anh được ghi nhận.
3. Số trận bất bại liên tục nhiều nhất trên sân đối phương tại giải
VĐQG:23 trận được thiết lập trong mùa bóng 2001-2002 kéo dài sang mùa
bóng 2002-2003 và được chấm dứt trong trận thua Everton 1-2 ngày
19/10/02.
Đây cũng là 1 kỷ lục của bóng đá Anh trong tất cả các hạng. Kỷ lục cũ do Nottingham Forest giữ từ tháng 11/1977 đến 12/1978.
4. Số trận bất bại nhiều nhất tại giải EPL: 30 trận được bắt đầu bằng
trận thắng Liverpool 2-1 (tại Anfield) ngày 23/12/2001 đến trận thua
Everton 1-2 ngày 19/10/02.
Kỷ lục cũ do MU nắm giữ từ năm 1998-99 với 29 trận.
5. Số trận thắng liên tục nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG
(hạng I & EPL): 13 trận. Kỷ lục được thành lập từ nửa cuối mùa bóng
2001-02 bắt đầu bằng trận thắng tại Everton 1-0 ngày 10/2/02 và kết
thúc bằng trận thắng trên sân nhà 4-3 trước …Everton (trận cuối cùng
của mùa bóng) ngày 11/5/02.
Kỷ lục cũ doTottenham giữ ở mùa bóng 1960-61 là 11 trận.
6. Số trận thắng liên tục nhiều nhất tại giải VĐQG (hạng I & EPL):
14 trận được thành lập từ trận thắng Everton 1-0 ngày 10/2/02 (mùa bóng
2001-02) đến trận thắng Birmingham 2-0 (trận đầu tiên của mùa bóng
2002-03) ngày 18/8/02.
Kỷ lục cũ cũng do Tottenham giữ với 13 trận trong thập niên 60.
Với 14 trận thắng liên tục này trong giải VĐQG, Arsenal cũng đã cân
bằng kỷ lục 14 trận thắng liên tục được tính cho mọi hạng đấu do MU
(1904-05), Bristol City (1905-06), và Preston North End (1950-51). Tất
cả đều thiết lập tại giải hạng II
7. Số trận thắng liên tục nhiều nhất trên sân đối phương tại giải EPL:
8 trận. Kỷ lục thành lập trong mùa bóng 2001-02 được bắt đầu bằng trận
thắng tại Leicester 3-2 ngày 23/1/02 và kết thúc bằng trận thắng 1-0
tại MU ngày 8/5/02. Sau đó là trận hòa 2-2 tại West Ham.
8. Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải EPL: 3 trận trong mùa
bóng 2001-02. Kỷ lục này còn do MU (1998-99, 1999-2000), và Chelsea
(1998-99) đồng nắm giữ.
9. Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng ở giải VĐQG trong thế kỷ XX
(từ mùa bóng 1900-91 trở về sau kể cả EPL): 1 trận ở mùa bóng 1990-91.
Nếu tính toàn bộ thời gian (trước và sau thế kỷ XX) thì Preston North
End mới là đội có số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng: 0 trận ở mùa
bóng 1888-89 nhưng khi đó họ chỉ đấu có 22 trận mà thôi trong khi
Arsenal là 38 trận.
10. Số bàn thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải EPL: 17 bàn (38 trận) trong mùa bóng 1998-99.
Kỷ lục cho toàn bộ giải VĐQG (hạng I & EPL) là 16 bàn thua (42
trận) do Liverpool thiết lập ở mùa bóng 1978-79. Đây cũng là kỷ lục
trong toàn bộ VĐQG các hạng của bóng đá Anh.
11. Số lần lọt vào chung kết cúp FA nhiều nhất: 16 lần.
Kỷ lục cũ do MU nắm giữ với 15 lần vào chung kết.
12. Số lần vào bán kết cúp FA nhiều nhất: 23 lần.
Kỷ lục này ngang bằng với kỷ lục mà Everton nắm giữ khá lâu.
13. Số ần đoạt cú double (VĐQG và cúp FA) nhiều nhất: 3 lần vào các mùa bóng 1970-71, 1997-98 và 200-02.
Kỷ lục này đồng nắm giữ cùng với MU ở các mùa bóng 1993-94, 1995-96 và 1998-98.
14. Số lần đoạt cú double (cúp FA và cúp Liên đoàn) nhiều nhất: 1 lần
được thiết lập trong năm 1993 khi thắng Sheffield Wednesday trong cả 2
trận CK đều với tỉ số 2-1.
Kỷ lục này sau đó cũng được Liverpool gia nhập trong mùa bóng 2001.
15.Số điểm thắng được trên sân đối phương nhiều nhất trong 1 mùa giải: 47 điểm thu được trong mùa bóng 2001-02.
16. Số trận thua ít nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng: 0 trận cũng trong mùa bóng 2001-02.
Chỉ có 1 đội bóng khác không bi đánh bại trên sân đối phương trong suốt
1 mùa bóng là Preston North End ở mùa bóng 1888-89. Tuy nhiên lúc đó
Preston NE chỉ đấu có 11 trận (trên sân đối phương) trong khi Arsenal
là 19 trận.
17. Số lần VĐQG liên tục nhiều nhất: 3 lần vô địch ở các mùa bóng 1932-33, 1933-34 và 1934-35.
Kỷ lục này cũng có tên của Hudderdfield Town (1923-24, 1924-25 và
1925-26), Liverpool (1981-82, 1982-83 và 1983-84) và MU (1998-99,
1999-2000 và 2000-01).
18. Số cầu thủ da đen nhiều nhất trong 1 trận đấu của CLB: 9 cầu thủ.
Trong trận gặp Leed United ngày 2/9/02 thì trong đội hình của Arsenal
có mặt của Cole, Campbell, Lauren, Toure, Vieira, Gilberto, Wiltord,
Henry và Kanu.
19.Số cầu thủ có mặt trong 1 trận đấu của đội tuyển Anh nhiều nhất: 7
cầu thủ. Trong trận gặp Ý ngày 14/11/1934 Arsenal đóng góp tất cả 7 cầu
thủ (dĩ nhiên là trong đôi hình chính thức bởi vì trong thời gian đó
luật bóng đá vẫn chưa cho phép thay cầu thủ): Frank Moss, George Male,
Edris Hapgood, Wilfred Copping, Raymond Bowden, Ted Drake, Clifford
Bastin. Đây cũng là trận khoác áo lần đầu tiên của Drake cho tuyển Anh.
20. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất cho tuyển U-21 Anh: 13 bàn do
Franny Jeffers cân bằng kỷ lục của Alan Shearer trong trận hòa Thổ Nhĩ
Kỳ 1-1 ngày 1/4/03 trong khuôn khổ vòng loại Euro 2004. Lúc này Jeffers
còn khoác áo Arsenal.
21. Số trận ghi bàn liên tục của 1 cầu thủ trong giải EPL: 7 trận do Henry thiết lập.
Kỷ lục này cũng có tên của Alan Shearer và Mark Stein.
22. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất của 1 cầu thủ Pháp dưới màu áo của 1 CLB nước ngoài: 130+ bàn thắng của Thierry Henry.
Kỷ lục cũ do huyền thoại Michel Platini nắm giữ với 104 bàn thắng dưới
màu áo Juventus. Henry cân bằng kỷ lục này (104 bàn) trong trận gặp
Newcastle ngày 9/2/03.
23. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất của 1 cầu thủ trong 1 trận tại
giải VĐQG (hạng I & EPL): 7 bàn do Ted Drake thiết lập trong trận
thắng tại Aston Villa 7-1 ngày 14/12/1935. Tất cả các bàn thắng của
Arsenal trong trận này đều do Ted ghi.
Lẽ ra thì trong trận này kỷ lục không dừng lại ở con số 7 nếu may mắn
hơn. Ngoài 7 bàn thắng ghi được, Ted còn có 2 cơ hội ăn bàn: 1 cú sút
trúng xà ngang và 1 cú sút do thủ môn phá ra.
24. Cầu thủ lớn tuổi nhất lần đầu tiên khoác áo tuyển Anh: Leslie
Compton ở tuổi 38. Tiền vệ trung tâm của Arsenal chính thức được khoác
áo đội tuyển Anh lần đầu tiên trong trận gặp Wales ngày 15/11/1950.
25. Bàn thắng ghi được nhanh nhất trong lịch sử giải Champions League:
20.07 giây do Gilberto thiết lập trong trận gặp PSV Eindhoven.
Kỷ lục cũ do Del Piero nắm giữ là 20.12 giây.
Phần 2 Những kỷ lục trong phạm vi CLB Arsenal:
Bao gồm tất cả các kỷ lục trong bóng đá Anh và:
1. Cầu thủ trẻ tuổi nhất: Cesc Fabregas lúc 16 tuổi 177 ngày trong trận gặp Rotherham tại cúp Liên đoàn ngày 28/10/03.
Kỷ lục cũ do Jermaine Pennant giữ.
2. Cầu thủ ghi bàn trẻ tuổi nhất: Cesc Fabregas.
Cesc Fabregas đã ghi bàn trong trận thắng Wolves 5-1 tại cúp Liên đoàn vào ngày 2/12/03 lúc Cesc mới có 16 tuổi 212 ngày.
Kỷ lục cũ do huyền thoại Cliff Bastin giữ khi ông ghi bàn lúc 17 tuổi 296 ngày.
3. Trận thắng đậm nhất trong giải VĐQG (hạng !, II và EPL): 12-0 trước Loughborough ngày 12/3/1900 tại giải VĐQG hạng II.
4. Trận thua đậm nhất trong giải VĐQG (hạng !, II và EPL): 0-8 trước Loughborough ngày 12/12/896 cũng tại giải hạng II.
5. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp FA: 11-1 trước Darwen tại vòng 3 năm 1931-32.
6. Trận thua đậm nhất trong giải cúp FA: 0-6 trước Derby County tại
vòng 1 năm 1899; 0-6 trước West Ham tại vòng 3 (lượt đi) năm 1945-46.
7. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp Liên Đoàn: 7-0 trước Leed United tại vòng 2 (lượt về) mùa bóng 1979-80.
8. Trận thua đậm nhất trong giải cúp Liên Đoàn: 0-5 trước Chelsea tại vòng 4 mùa bóng
1998-99.
9. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp châu Âu: 7-0 trước Standard Liege (Bỉ) tại vòng 2 (lượt đi) cúp C2 mùa bóng 1993-94.
10. Trận thua đậm nhất trong giải cúp châu Âu: 2-5 trước Spartak Moscow (USSR) tại vòng 1 (lượt về) cúp C3 mùa bóng 1982-83.
11. Số bán thắng ghi được nhiều nhất trong 1 mùa tại giải VĐQG: 127 bàn ở mùa bóng 1930-31.
12. Số trận thắng liên tục trên sân nhà nhiều nhất: 12 trận được bắt
đầu từ trận thắng Fulham 4-1 ngày 25/2/02 đến trận thua Blackburn
Rovers 1-2 ngày 26/10/02.
13. Số bàn thắng ghi được ít nhất trong 1 mùa bóng: 26 bàn ở mùa bóng 1912-13.
14. Số bàn thua nhiều nhất trong 1 mùa bóng: 86 bàn trong các mùa bóng 1926-27 và 1927-28.
15. Số trận thắng nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 29 trận ở mùa bóng 1970-71.
16. Số trận thắng ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 3 trận ở mùa bóng 1912-13.
17. Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 1 ở mùa bóng 1990-91.
18. Số trận bất bại nhiều nhất kể từ đầu mùa bóng: 23 ở mùa bóng 1990-91.
19. Số trận thắng liên tục nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 13 trận ở mùa bóng 2001-02.
20. Số điểm thu được cao nhất trong 1 mùa bóng ở giải VĐQG: 66 điểm ở
mùa bóng 1930-31 (với 2đ/trận thắng) và 87 điểm ở mùa bóng 2001-02 (với
3đ/trận thắng).
21. Số điểm thu được cao nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng ở
giải VĐQG: 47 điểm mùa bóng 2001-02 (với 3 điểm/trận thắng).
22. Số trân thắng liên tục nhiều nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng: 8 ở mùa bóng 2001-02. Đây cũng là kỷ lục của EPL.
23. Số điểm thu được ít nhất trong 1 mùa bóng: 18 điểm ở mùa bóng 1912-13.
24. Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho CLB: Ian Wright với 185 bàn thắng từ 1991-98.
25. Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho CLB trong 1 mùa bóng: Ted Drake với 42 bàn thắng ở mùa bóng 1934-35.
26. Ghi nhiều bàn thắng nhất trong 1 trận đấu: 7 bàn doTed Drake thiết lập ở trận gặp Aston Villa ngày 14/12/135.
27. Số trận ghi bàn liên tục nhiều nhất của 1 cầu thủ: 10 trận do Ian
Wright (mùa bóng 1994-95) và Thierry Henry (1999-2000) cùng giữ.
28. Khoác áo CLB Arsenal nhiều nhất trong lịch sử: với 722 lần từ năm 1973-1993 của David O''Leary.
29. Khoác áo CLB Arsenal nhiều nhất trong giải VĐQG: 552 lần của David O''Leary
30. Số lượng khán giả đông nhất tại SVĐ Highbury: 73295 người trong trận gặp Sunderland ngày 9/3/1935.
31. Phí chuyển nhượng phải trả cao nhất: 13 triệu bảng Anh cho Bordeaux (Pháp) để mua Sylvain Wiltord tháng 8/2002.
32. Phí chuyển nhượng thu được cao nhất khi bán cầu thủ: 23.5 triệu
bảng Anh từ Real Madrid khi bán Nicolas Anelka tháng 8/1999. Và 30
triệu bảng Anh từ Barcelona khi bán Marc Overmars và Emmanuel Petit
tháng 8/2000.
Trong nhiều thập kỉ qua , Arsenal luôn luôn là đội bóng đi đầu trên
nhiều lĩnh vực , từ việc phát minh ra số áo cầu thủ đến việc là CLB đầu
tiên trên TG thi đấu vào buổi tối dưới ánh đèn cao áp . Và Arsenal có
thể tự hào rằng họ đang sở hữu một Highbury – SVĐ được xây dựng với cấu
trúc tân tiến nhất và thuộc loại lâu đời nhất trên TG .
Highbury trở thành sân nhà của Arsenal ( lúc đó có tên là Woolwich
Arsenal ) vào ngày 5 / 9/ 1913 , ngày đã gắn liền với lịch sử hào hùng
của CLB . Lúc đầu , ban lãnh đạo của CLB chỉ đồng ý thuê sân trong thời
hạn 21 năm trươc khi chuyển sang một SVĐ mới hơn . Do sân lúc đó thuộc
quyền sở hữu của trường đại học St.Johns , ng` ta yêu cầu các trận đấu
ko được diễn ra vào các ngày năm mới hoặc Giáng Sinh . Về sau quy định
này được huỷ bỏ vào năm 1925 sao khi Arsenal bỏ ra 64 .000 bảng Anh (
một khoản tiền lớn lúc bấy giờ ) để mua toàn bộ SVĐ vì Arsenal ko tìm
được một vị trí thuận lợi nào khác ở phía Bắc London để xây SVĐ riêng
cho mình . Số lượng khán giả ngày càng tăng trở thành sức ép lớn với
Arsenal và mặc dù đang mắc nợ rất nhiều trong thời gian này , CLB vẫn
quyết định xây SVĐ mới . Rất nhiều công việc đã được tiếng hành trong
nhiêu thập kỉ . Mặt sân bị nghiêng đã được tu sửa lại , các đường hầm ,
fòng thay quần áo , và các hàng rào được xây dựng lên trong những năm
sau đó . Nhưng những dấu ấn định hình thực sự của Highbury chỉ ắt đầu
xuất hiện trong những năm đầu của thập niên 30 . Năm 1932 , Quận công
Windsor cắt băng khánh thành khán đài lớn phái Tây có sức chứa 4000 chỗ
ngồi và 20.000 chỗ đứng . Đó là cấu trúc lớn nhất lúc bấy giờ và ngay
trong trận đấu đầu tiên với khán đài mới vào tháng 12 / 1932 Arsenal đã
đánh bại Chelsea vớit tỉ số 1 – 0 .
Người ta kể lại rằng để đẩy nhanh tiến độ xây dựng khán đài phía Tây ,
Arsenal khuyến khích ng` dân sống ở các khu dân cư gần đấy đổ rác xuống
nền SVĐ . Một ng` bán thân kể lịa rằng , do lớp rác quá dày nhưng quá
mềm , ông ra đã suýt bị lún xuống đó , nhưng con ngựa kéo và chiếc xe
ngựa đã bị lún xuống lớp bùn và biến mất trong nháy mắt . Rất nhiều tai
nạn tương tự xảy ra trong thời kì này nhưng rất may ko có ai bị thiệt
mạng . Công việc cũng ko được suôn sẻ khi ng` ta tiến hành xây dựng
khán đài fía Đông . Công trình phải hoãn lại nhiều lần vì thiếu thốn và
rất nhiều tai nạn đã xảy ra trong thời gian xây dựng . Người ta vẫn đồn
đại rằng , hồn ma những ng` công nhân đã chết trong những năm ấy giờ
đây thỉnh thoảng vẫn hiện về ám ảnh
Highbury Và Sir Herbert Chapman là những cái tên gắn liền với nhau .
Năm 1925 , khi được bầu làm HLV trưởng của đội bóng , trong ngày đầu
tiên nhậm chức , Chapman đã đứng giữa sân và thề rằng ông sẽ đem lại
nhiều danh hiệu cho CLB , một điều mà CLB khát khao bao năm qua nhưng
ko bao giờ với tới được . Những hệ thống chiến thuật mang tính cách
mạng trong những năm 30 của Chapman đã đem lịa chiến thắng liên tiếp .
Kể từ năm 1925 – 1934 ( năm ông mất vì bệnh viêm phổi ) , Arsenal đã
dành được 3 chức vô địch , 2 chức á quân và 1 cup FA . Chính Sir
Chapman là ng` đã mở ra những trang sử hào hùng cuả CLB mà đến bay giờ
ko ai có thể quên .
Highbury lần đầu tiên được chọn là sân nhà của đội tuyển Anh vào năm
1934 . Trong trận giao hữu với đội ĐKVĐ thế giới lúc ấy là Ý vào ngày
14 / 11 / 1934 , có tới 7 cầu thủ cuâ Arsenal có mặt trong đội hình đội
tuyển Anh , một kỉ lục thực sự mà chỉ có Liverpoool mới có thể sánh
bằng . Điều đó cho thấy Arsenal đã thống trị bóng đá Anh trong những
năm 30 như thế nào . Đội tuyển Anh đã thắng với tỉ số 3- 2 , trong đó
có một bàn thắng của Ted Drake , cây ghi bàn xuất sắc của Arsenal .
Highbury đã chứng kiến rất nhiều vinh quang của CLB trong những năm qua
. Sau cái chết của HLV Chapman , Arsenal chìm trong bóng đêm của sự
thất vọng . Nhưng giờ đây Arsenal đã trở lại với chính mình ,Arsenal
đang khẳng định lại mình chính là đội bóng hàng đầu nước Anh và đang cố
toả sáng trên đấu trường Châu Âu , trở thành đội bóng hàng đầu của
London . Lần gần đây , các CĐV của “ Gunners “ có dịp ăn mừng là vào
tháng 5 / 2002 vừa qua , Arsenal được cú đúp Vô địch Anh và cup Fa ,
đến đầu mùa giải 2002 – 2003 Arsenal đã đánh bại Liver để dành siêu cup
Anh . Arsene Wenger ng` đã có công đưa CLB lên đỉnh cao những năm vừa
qua sẽ mãi mãi được lưu danh trong bảo tàng CLB , đặt ở khán đài bắc ,
, xây dựng trong những năm 50 và mới tu sửa lại trong thời gian gần đây
. Khán đài này được sửa thành chỗ ngồi để đảm bảo an toàn cho CĐV sau
thảm hoạ Hillsborough vào năm 1989 . Trong số những cái tên được nhắc
tới và lưu danh ở đây trong thời gian gần đây có Ian wright , một trong
những cầu thủ được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử CLB và ngôi sao
đương đại Dennis Bergkamp . Ở tầng 1 của khán đài fía Đông là tấm biển
vàng ghi danh 3 lần vô địch liên tiếp của CLB trong những năm 30 hoàng
kì . Điều về sau mà chúng ta chưa lặp lại được , . Nhưng thực sự CLB
tin rằng thời hoàng kim đang trở lại sân Highbury , trở lại Arsenal và
chúng ta hoặc lập lại được kỉ lục cũ , hoặc phá kỉ lục với 4 – 5 hay 6
lần vô địch liên tiếp - chẳng có gì là ko thể .